Mùi Hương Động Vật – Animal Notes: Castoreum

Vào đầu thế kỷ XX trend của hầu hết các loại nước hoa đều có note hương động vật. Hương thơm của chúng tuy nồng nàn nhưng cực kỳ quyến rũ. Castoreum mang lại một hương thơm da thuộc cực kỳ mãnh liệt cho cả nước hoa nam và nước hoa nữ.

Đơn cử một số chai nước hoa làm về note động vật nổi tiếng:

Castoreum (dịch tiết màu vàng từ túi thầu dầu của hải ly trưởng thành. Hải ly sử dụng Castoreum kết hợp với nước tiểu để đánh dấu lãnh thổ của chúng) trong Beaver by Zoologist Perfumes.
Civet (sản phẩm phụ từ tuyến hậu môn của cầy hương) trong Kouros by Yves Saint Laurent.
Musk (dịch tiết ra từ tuyến xạ của hươu xạ đực) trong cả nhà Narciso Rodriguez được người Việt Nam ưu ái với những cái tên Nar trắng, Nar hồng, Nar lùn đỏ, Nar cam vv…
Hyraceum (phân hoá thạch của loài gặm nhấm Hyrax) trong Montecristo by Masque Milano.
Ambergris (long diên hương) trong Another 13 by Le Labo.

Ngày nay, những hương thơm từ động vật hoang dã đã bị cấm khỏi ngành mỹ phẩm ở hầu hết các nước trên thế giới, đồng thời hương thơm của Castoreum đã ít xuất hiện hiện trong nước hoa hơn do nhu cầu và thị hiếu mua hàng đã thay đổi.

Pomanders.

Vào thời Trung Cổ, những người thợ làm găng tay đã chế tạo ra một quả cầu đặt tên là “the apples of scent”, còn được gọi là pomanders. Những viên pomanders mang trong mình những note hương động vật kể trên dưới dạng nước hoa. Những món trang sức này được đục, đẽo bằng tay chứa tinh chất nước hoa bên trong và đôi khi được khảm đá quý. Những quý tộc đeo nó trên thắt lưng với mục đích trang trí nhưng trên hết là vì mùi của chúng quá nồng, toả mạnh và có khả năng che lấp đi mùi cơ thể vốn không mấy sạch sẽ thời bấy giờ.

Vậy Castoreum là gì?

Castoreum là chất dầu rất thơm tiết ra từ túi dầu nằm trong bụng hải ly và được cho ra ngoài theo đường hậu môn. Chất dầu này giúp chúng chống thấm nước và được dùng để đánh dấu lãnh thổ.

Để thu lấy tinh dầu, chất này sẽ được xử lý bằng dung môi dễ bay hơi, sản phẩm cuối cùng thu được dưới dạng resinoid (nhựa), tinh dầu, hoặc thành phẩm quá trình infusion với cồn. Chất này sau đó được đem đi tinh chế để loại cỏ cặn và phụ phẩm. Cần 5kg mỡ thô để tạo thành 1kg tinh dầu Castoreum.

Loài gặm nhấm này sống nhiều ở Canada và Nga. Chúng thường được săn lùng, chủ yếu là vào tháng giêng, khi bộ lông của chúng ở trạng thái đẹp nhất (được phép săn bắt nhằm ổn định dân số).

Lịch sử của Castoreum:

Castoreum được sử dụng phổ biến từ thời cổ đại đến tận cuối thế kỷ XX. Note hương tự nhiên này bị cấm sử dụng trong sản xuất nước hoa hơn 20 năm nay vì cần phải tiễn con hải ly về suối vàng để lấy được túi dầu.
Trong quá khứ, Castoreum được sử dụng như một liều thuốc chữa động kinh, đau đầu hoặc sốt. Nó chứa một số thành phần hoá học gần giống với aspirin và được coi là một loại thuốc kích thích tình dụ. Những ghi chép sớm nhất của nó có từ thời Đế quốc Đông La Mã (Byzantine).

Castoreum là hương liệu thô từ động vật rẻ nhất khi so sánh với Civet, Musk, Ambergris. Mỗi năm những người dân Canada phải PK hàng trăm ngàn con hải ly để hạn chế sự sinh sản quá mức của loài này.

Ngày nay, mùi Castoreum trong nước hoa chỉ còn là hương liệu tổng hợp nhân tạo, nó giống tầm 8/10 khi so sánh với Castoreum tự nhiên.

Castoreum có một số tác dụng chống viêm và hạ sốt do chứa axit salicylic và các dẫn xuất của nó.

Hương thơm:

Hiện nay chúng ta biết được hơn 60 hơp chất cấu thành mùi Castoreum. Phenol đóng vai trò quan trọng trong đó, nó mang đến một mùi khói hơi hăng đặc trưng được nhiều người ví như mùi dược liệu. Trong mỹ thuật, Phenol được sử dụng làm chất bảo quản trong bột màu Gouache. Methylphenol, hoặc Cresols là một loại Phenol mang lại hương thơm của hoa Mimosa và hoa Narcissus. Ngược lại trong hoa Mimosa và hoa Narcissus cũng có các loại Phenol này làm cho chúng có mùi hương động vật rất đặc trưng. Ngoài Phenol, Acetophenone, Benzyl alcohol, Axit Benzoic, Borneol và Amoniac là những thành phần quan trọng tạo nên mùi Castoreum, tất cả những chất này đều được phát hiện vào nửa đầu thế kỷ 20.

Mùi hương rõ nhất của Castoreum là hương da thuộc, động vật và khói. Nó gợi lên cảm giác như bạn đang ngửi một lọ mực hoặc một chiếc khăn choàng lông hải ly. Castoreum có một chút hương thơm của mận, olive đen và trái cây sấy khô.
Hương Castoreum được sử dụng rộng rãi trong những chai nước hoa thuộc nhóm Oriental (Amber), Chypre, Leather và Woody. Nó còn được sử dụng làm mùi cho thuốc lá, một số loại đồ ngọt và hương vani tổng hợp.

Castoreum thường được mix với những hương thơm như Styrax, Peru Balsam và Tuyết tùng.

Làm sao để thay thế Castoreum?

100 năm trước, khi hải ly đang bị đe dọa nghiêm trọng, các nhà sản xuất nước hoa đã cố gắng tìm một chất thay thế tổng hợp cho Castoreum tự nhiên. Dihydrocarveol và các dẫn xuất của nó cùng với nhựa cây bạch dương là một trong những dung dịch thường được sử dụng nhất.

Bất chấp lệnh cấm từ WWF một số thương hiệu nội địa đến từ Trung Đông vẫn sử dụng loại hương liệu tự nhiên này. Tuy nhiên cũng có một số chất có thể sử dụng để thay thế Castoreum tự nhiên như:
– Castoreum nhân tạo của Artessence de Biolande.
– Note hương động vật có trong hoa nhài: Indole.
– Xạ hương thực vật như Ambrette.
– Những note hương thực vật với tông mùi hơi bẩn như Cumin (thì là), hoa costus, Labdanum, Sage (xô thơm), Hyssop (bài hương), Atlas Cedar (gỗ tuyết tùng Atlas), Osmanthus (hoa mộc tê), Leather (da thuộc). 

Nguồn: Huỳnh Anh Vũ

Please follow and like us:
Pin Share

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

CAPTCHA ImageChange Image

Contact Me on Zalo